I.MỤC ĐÍCH – Ý NGHĨA:
- Giúp đoàn viên giáo viên, học sinh hiểu biết hơn về các “địa chỉ đỏ”, nơi mà cha ông đi trước đã tạo nên những mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
- Phát huy vai trò xung kích, tinh thần tình nguyện, sự sáng tạo của Chi đoàn trong các hoạt động phong trào, công tác Đoàn - Đội để thực hiện tốt Tháng Thanh niên.
- Nhằm giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, tương thân tương trợ, giúp đỡ các bạn học sinh khó khăn vùng sâu vùng xa của tuổi trẻ Chi đoàn.
- Là hoạt động thiết thực chào mừng Tháng Thanh Niên năm 2017 với chủ đề “Tuổi trẻ Bình Thạnh chung tay xây dựng văn minh đô thị và nông thôn mới”, kỷ niệm 86 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931 – 26/3/2017) và Đại hội Chi đoàn trường THCS Lê Văn Tám nhiệm kỳ 2017 - 2019.
- Tạo mối giao lưu, hiểu biết giữa Chi đoàn trường với Chi đoàn các đơn vị tỉnh thành khác.
II. NỘI DUNG:
- Thời gian – Địa điểm:
- Thời gian : 5h00 – 20h00 thứ 7 ngày 11/3/2017
Địa điểm: Căn cứ Trung ương Cục miền Nam, xã Tân Lập, huyện Tân Biên và Trường THCS Phước Minh tại Ấp B1, xã Phước Minh, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.
- Nội dung:
- Sinh hoạt chủ điểm Tháng Thanh niên, truyền thống Cách mạng tại Căn cứ Trung ương Cục miền Nam.
- Thăm và tặng quà cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn tại Trường THCS Phước Minh, Ấp B1, xã Phước Minh, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.
CẢM NHẬN SAU MỘT CHUYẾN ĐI
Suốt bốn năm học tập, rèn luyện đạo đức dưới mái trường Lê Văn Tám này, tôi đã được Ban giám hiệu cho chúng tôi (Thái Đan Anh lớp 85, Đỗ Thị Mỹ Hoa lớp 88,Lê Thanh Trà lớp 97 và tôi – Nguyễn Lâm Phát lớp 95) tham gia Chuyến hành trình về nguồn và sinh hoạt chủ điểm tháng 3 tại Trung Ương Cục Miền Nam ở Tây Ninh vào thứ bảy ngày 11 tháng 3 năm 2017. Xe gồm thầy Nguyễn Hữu Danh – phó Hiệu trưởng nhà trường, cô Phan Thị Diệu – phó Hiệu trưởng nhà trường, cô Lê Thị Nhung – chủ tịch Công Đoàn, các thầy, cô là Đoàn viên và bốn học sinh chúng tôi. Chuyến xe khởi hành từ rất sớm. Ban đầu, tôi cứ tưởng rằng thầy cô vẫn giữ vẻ uy nghiêm trước chúng tôi nhưng sự thật hoàn toàn khác. Các thầy, cô không còn nghiêm khắc nữa mà tất cả đều rất thân thiện, đáng yêu và vui vẻ. Chuyến hành trình từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Tây Ninh này là chuyến đi của nhiệt huyết tuổi trẻ. Không khí vui vẻ, thoải mái, hài hước tràn ngập khắp xe suốt chặng đường. Không những vậy, khi về với Tây Ninh, tôi như được hòa mình vào không gian yên tĩnh và màu xanh hoàn hảo của đất trời, cây cối. Có lẽ, chỉ những ai sống trên thành phố mới hiểu được cái cảm giác này. Dù bị ngăn cách bởi tấm kính cường lực và được di chuyển bỏi chiếc xe nhưng tôi cảm giác như đang đắm chìm hưởng thụ cái không khí trong lành và mát mẻ của chốn rừng cây. Những khu rừng cao su cứ trãi dài trên đường mà chúng tôi tiến về Cục Trung Ương. Cái không khí dịu nhẹ của cảnh thiên nhiên cứ như vượt cả thời – không gian bay vào xe phả vào tâm trí tôi. Nó như một cơn gió dịu mát thổi bay “cái nóng gay gắt mùa hè” khiến hồn tôi như bay cùng mây, bơi cùng sóng. Đan Thụy cũng từng viết:
“Về Biên Trấn nghe lời rừng ru nắng
Lá trút theo mùa sợi gió mong manh
Cao su bạt ngàn đẹp dòng nhựa trắng
Xanh thắm mưa về đan ước mơ xanh”
(Tây Ninh quê hương tôi)
Với lời thơ mộc mạc, giản dị, Đan Thụy đã bộc lộ niềm tự nào về quê hương dấu yêu của mình mà ở đây là phong cảnh rừng cao su nơi Biên Trấn. Các từ ngữ miêu tả dáng hình của cây cao su kết hợp với trí tưởng tượng phong phú của tác giả và niềm tự hào quê hương cùng các biện pháp tu từ từ vựng, nhà thơ đã thốt ra những từ ngữ làm ngây ngất lòng người: “lời ru của nắng”, “lá trút theo”, “sợi gió mong manh”, “đẹp dòng nhựa trắng”, “đan ước mơ xanh”. Với bốn câu thơ nhẹ nhàng và bình dị, tác giả đã vẽ ra bức tranh rừng cao su đầy màu sắc mà bản thân tôi không thể mien tả bằng lời.
Chiếc xe lại tiếp tục lăn bánh, cái nóng gay gắt của mùa hạ vẫn không đủ sức làm vơi đi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước và không khí vui tươi trên xe của chúng tôi. Đi tiếp một đoạn đường khá dài, chúng tôi đến hồ Dầu Tiếng (hồ được khởi công xây dựng vào ngày 29/4/1981 và hoàn thành vào ngày 10/1/1985; có khu đầu mối nằm tại huyện Dầu Tiếng tỉnh Bình Dương và huyện Hớn Quản tỉnh Bình Phước song lưu vực chủ yếu nằm trên địa phận huyện Dương Minh Châu và một phần nhỏ trên địa phận huyện Tân Châu, thuộc tỉnh Tây Ninh nằm cách thành phố Tây Ninh 25km về hướng đông). Công trình hồ Dầu Tiếng này hầu như đã huy động gần hết nhân dân ở độ tuổi thanh niên ở tỉnh Tây Ninh tham gia đào hồ Dầu Tiếng. Với một đập xả lũ ra đầu nguồn sông Sài Gòn ngoài ra còn có hai kênh Đông và kênh Tây đã tưới mát những cánh đồng mì, mía, lúa không chỉ ở Tây Ninh mà còn ở Củ Chi (Thành phố Hồ Chí Minh). Ngoài ra còn cung cấp nước cho nhà máy lọc nước ở Thủ Đức. Chính vì điều đó mà hồ có diện tích mặt nước là 270 km² và 45,6 km² đất bán ngập nước, dung tích chứa 1,58 tỷ m³ nước. Đứng trước hồ Dầu Tiếng, đoàn chúng tôi như đang đứng trước biển cả mênh mông bốn bề chỉ có nước, sương và núi. Dù chỉ mang trên mình chữ “hồ” nhưng sự thật thì cái “hồ” đó là tập hợp gần như tất cả sông, hồ ở miền Nam mà còn có thể sánh vai với một khu biển nào đó. Chúng tôi lại tiêp tục chuyến hành trình. Nơi gần đến khu Căn cứ Trung ương Cục miền Nam, đó là một cách rừng xanh bát ngàn tít tận trời mây, đi vào khu Căn cứ cũng không phải gần, tôi một lần nữa đắm chìm vào cảnh sắc thiên nhiên hữu tình. Hai bên đường là bạt ngàn một rừng cây xanh ngắt. Cái cảm giác đứng giữa rừng cây thật nhẹ nhàng và tươi mát. Không khí hoàn toàn khác hẳn ở nơi thành thị. Nó êm ả, nhẹ nhàng, thơ mộng, và đầy sự trong lành, khác hẳn hoàn toàn cái Sài Gòn lúc nào cũng bận rộn tấp nập. Khung cảnh bát mẻ đó hết hợp với ánh nắng nhẹ nhàng xuyên qua kẽ lá tạo nên khung cảnh lãng mạn đến lạ kì, nó tạo cho mọi người xung quanh cảm giác che chở, an toàn đến kì lạ. Chả trách các anh chiến sĩ đã chọn rừng là bạn, là nhà, là người đồng chí đồng hành suốt chặn đường kháng chiến chống hai đại cường quốc xâm lược nước ta. Như tác giả Huỳnh Văn Nghệ trong Rừng nhớ người đi có viết:
“Từ độ chàng đi vung kiếm thép
Mịt mù khói lửa khuất binh nhung.
Rừng xanh thương nhớ như chinh phụ
Hồi hộp nghe từng tin chiến công.”
Băng qua cánh rừng đầy thơ mộng, cuối cùng, chúng tôi đã đến khu Di tích lịch sử Căn cứ Trung ương Cục miền Nam. Căn cứ ở về phía Bắc tỉnh Tây ninh, sát biên giới Việt Nam – Campuchia, cách thị xã Tây Ninh khoảng 60km. Khu di tích còn được biết
tới với những tên gọi khác, như: R (mật danh của Trung ương Cục miền Nam); Căn cứ Chàng Riệc (gọi theo tên khu rừng đặt Căn cứ); Căn cứ Phạm Hùng (đồng chí Phạm Hùng từng giữ chức vụ Bí thư Trung ương Cục trong một thời gian dài); Căn cứ địa Bắc Tây Ninh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, miền Đông Nam Bộ nói chung và Tây Ninh nói riêng là địa bàn chiến lược quan trọng. Khu căn cứ địa Bắc Tây Ninh là địa bàn của cơ quan đầu não cách mạng miền Nam trong một thời gian dài và trực tiếp chỉ đạo, lãnh đạo cách mạng miền Nam cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Khu di tích lịch sử Căn cứ Trung ương Cục miền Nam gồm ba phân khu: Căn cứ Trung ương Cục miền Nam, Căn cứ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Căn cứ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Tháng 3 năm 1951, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (khóa II) quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam, do đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư, đồng chí Lê Đức Thọ làm Phó Bí thư. Sau đó, đồng chí Lê Đức Thọ được cử làm Bí thư, đồng chí Phạm Hùng làm Phó Bí thư. Đầu 1965, Trung ương Cục được giao nhiệm vụ chỉ đạo Nam bộ và cực Nam Trung bộ, đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Xứ ủy Nam bộ, đảm nhận trọng trách Bí thư Trung ương Cục. Khu căn cứ được xây dựng tại rừng Chàng Riệc, Rùm Đuôn giữa rừng nguyên sinh với nhiều tầng cây che phủ. Hệ thống nhà ở và phòng làm việc trong căn cứ nổi trên mặt đất, toàn bộ cột, kèo, đòn tay đều làm bằng gỗ, mái được lợp bằng lá trung quân. Các hầm trú ẩn thường làm kế cận nhà ở và làm việc, chìm vào lòng đất.
Hiện nay, di tích này được chia thành hai khu vực chính:
- Khu di tích: phục hồi nhà thường trực, hội trường lớn, hội trường nhỏ, nhà bảo vệ, văn phòng, bếp Hoàng Cầm, nhà ở và làm việc của các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Chí Thanh, Võ Văn Kiệt, Phạm Hùng..., hệ thống giao thông hào, ụ chiến đấu và hầm hàm ếch, phân bố đều trên toàn tuyến.
- Khu tưởng niệm: gồm nhà đón tiếp, trưng bày, khu tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Tổng diện tích xây dựng của khu vực này là 750m2.
Ngoài ra, từ ngày 6 - 8/6/1969, tại rừng Tà Nốt, huyện Châu Thành (nay là huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh), Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát là Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ là Chủ tịch Hội đồng Cố vấn.
Khu Căn cứ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam với diện tích là 60ha, được chia làm ba khu vực:
- Khu di tích gốc gồm: nhà làm việc, nhà ăn, bếp Hoàng Cầm, hầm trú ẩn, giao thông hào.
- Khu tôn tạo gồm: nhà đón tiếp, trưng bày, phòng khách, nhà làm việc, nhà bia;
- Khu bảo tồn: gắn với cảnh quan thiên nhiên.
Không chỉ vậy, chúng tôi còn được nghe thuyết trình về diễn biến cuộc chiến chống Mỹ ở Tây Ninh. Là do các anh chiến sĩ nước ta quá thông minh và có tài xây dựng, đánh trả như thần hay do sự che chở và bảo bọc của mẹ Thiên nhiên đối với họ mà dù diễn biến trận chiến có gay go thế nào thì kết quả cuối cùng vẫn là bộ đội Việt Nam? Phải, các anh đã góp công lừng lẫy trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.
“Mời anh về thăm Tây Ninh yêu thương!
Miền quê trung dũng mảnh đất thành đồng
Xưa hiên ngang chung lòng giữ nước
Nay vững vàng cùng xây dựng quê hương.”
(Tây Ninh quê hương tôi)
Tác giả Đan Thụy với niềm tự hào về Tây Ninh nói chung và các anh chiến sĩ nói riêng kết hợp với lời thơ đầy cảm động đã thổi dậy trong tim chúng tôi ngọn lửa của lòng kính yêu gửi đến các anh. Chuyến đi như một nén hương trầm của đoàn tôi dâng lên các liệt sĩ vì: “Họ đã sống và chết/Giản dị và bình tâm/Không ai nhớ mặt đặt tên/Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Chính sự hy sinh của họ đã tạo nên sự sống của ta ngày nay. Họ không màn sự sống, họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” vì thế ta phải chân thành biết ơn những cống hiến âm thầm mà lớn lao của họ. Sự thành kính đó là nơi tim không thể nói thành lời mà tiêu biểu là chuyến hành trình này.
Chuyến tham quan của chúng tôi kết thúc. Trước khi tham quan di tích, đoàn chúng tôi có gặp gỡ các bạn đến từ trường THCS Phước Minh, các bạn không chỉ mộc mạc giản dị mang đậm chất Nam Bộ mà còn rất thân thiện và hiếu học. Chỉ gặp gỡ và trò chuyện vài phút chuyến tham quan di tích nhưng sự chân thật của họ đã đễ lại tron tôi chút lưu luyến gì đó mà đến khi chia tay tiếp tục chuyến hành trình, lòng tôi dã lé lên cảm giác tiếc nuối không muốn chia xa. Nhưng việc gì đến, nó sẽ đến, chúng tôi lên xe, tiếp tục chuyến hành trình của mình. Tôi không rõ là đi đâu nữa, ra khỏi khu rừng với đầy lưu luyến, tôi thiếp đi trên xe. Khi đang chìm trong giấc mộng mông lung thì tôi bị đánh thức bởi một cơn giật khiến tôi tỉnh người. Tôi có chút khó chịu, nhưng chỉ không đến vài giây sau thì tôi đã hiểu chuyện gì xảy ra và tôi đã hoàn toàn cảm thông và thương cảm điều đó. Người dân nơi đó nghèo, nghèo đến các tuyến đường dù được Nhà nước trán nhựa nhưng vẫn mang trên mình rất nhiều chỗ lún xuống, họ “lực bất tòng tâm” nên chỉ còn có thể rãi đá lên đường với mong muốn phần nào che lấp đi những lỗ đó để giao thông có đôi phần thuận tiện hơn. Không khí bây giờ rất nóng, cái nóng đến hơn 30 độ và trên xe chúng tôi đã thiếp đi hơn nữa vì chuyến đi trước. Chúng tôi đến nơi. Đó là ngôi trường sân rộng rãi nhưng bóng cây thưa thớt, có một cây phương nơi góc phải trường tính từ ngoài nhìn vào. Trường nghèo, chỉ có trên dưới 15 phòng học. Chúng tôi đến trường để giao lưu và trợ giúp cơ sở vật chất cho nhà trường. Xuống xe, tôi mang tập vào phòng, tôi thấy thấp thoáng có bóng ba học sinh rất quen. Ra vậy, đó là ba bạn mà cùng tham gia trong chuyến hành trình tham quan Cục Trung ương. Ra đây là trường mà họ học – trường THCS Phước Minh. Gặp họ, sao tôi thấy trong lòng có cảm giác gì đó rất lạ. Chúng tôi thực hành lễ rồi đến hội. Hai trường rất thân thiết, tự nhiên và chơi đùa với nhau rất vui vẻ. Cái khoảnh khắc tiệc sắp tàn, khi đó chúng tôi (học sinh trường THCS Lê Văn Tám) nghỉ ngơi, thầy Hiệu trưởng lại và trò chuyện với chúng tôi. Đó có phải là cảm xúc khi nãy của tôi không khi tôi biết đây là ngôi trường miền quê nghèo, học sinh vừa đi học vừa đi làm phụ giúp gia đình. Suốt chín năm đèn sách, tôi hiểu thế nào, biết thế nào là học sinh nghèo và đã đọc qua nhiều mẫu chuyện về điều đó. Nhưng lần này cảm xúc trong tôi có gì đó rất lạ, rất khác. Khác, lạ đến nổi không thể diễn tả bằng lời. Nó mang chút gì đó buồn, chút gì đó yêu, chút gì đó đau và chút gì đó vui mà tổ hợp tất cả là cảm xúc tôi lúc bấy giờ. Hai năm trước lớp tôi cũng tổ chức chuyến từ thiện tại làng SOS nhưng cảm giác đó vẫn không phải là bây giờ. Khi đó tôi chỉ mang cảm giác xót thương trước các em. Hay do ngày ấy tôi chưa lớn, hay do các bạn có cùng lứa tuổi với tôi mà tôi lại có một cảm xúc kì lạ đến vậy. Tôi chỉ biết trong đó có buồn, vui, yêu và đau.
Cuộc vui nào cũng có lúc kết thúc, cuộc gặp gỡ nào cũng phải chia xa. Chuyến hành trình về nguồn của chúng tôi khép lại tại đó. Xe chúng tôi ra về. Ông bà ta nói quả không sai: “Đi một ngày đàng, học một sàn khôn”. Chuyến đi này không chỉ là một chuyến vui chơi, giải trí sau gần hai tháng học tập vất vả mà còn cho tôi biết nhiều hơn về kiến thức địa lí, về đất nước thân yêu của ta, về sự tuyệt diệu của thiên nhiên mà có cả những cảm xúc mới trong tôi được hình thành để chung quy lại, tất cả sẽ tạo một hành trang vững chắc trong cuộc thi sắp đến đây và cả vào cuộc đời mai sau cho không chỉ riêng tôi mà còn cho “ba người bạn đồng hành” suốt chuyến đi này.











